Cuộc chiến trong lòng đất (kỳ 5):
Kháng chiến dẻo dai nhờ khoai với củ
Đào hầm lủ khủ nhờ củ với khoai…
Giọng lảnh lót của cô bé quảy gánh khoai đi đến đâu làm chỗ đó
bật lên tiếng cười. Mấy chú mấy anh đang đào hầm giả bộ làm mặt chê: “Bộ mày
hết bài hát sao mà ngày nào cũng cứ bấy nhiêu hát đi hát lại hoài vậy, Bảy?”.
Con bé ngúng nguẩy trề môi làm thêm câu chót: Có củ với khoai đào hoài hổng
mệt! Ai nấy cười rần.
“Con bé” đó là… bà Bảy Mia cách đây 55 năm trước, hiện đang sống ở ấp
Cây Da, xã Tân Phú Trung, huyện Củ Chi, TP.HCM. Ngày đó Bảy Mia mới có 12 tuổi,
là thiếu nhi, được phân công nhiệm vụ tiếp tế khoai lang, khoai mì cho mấy chú
mấy anh đào địa đạo chống giặc Pháp.
Làng ngầm đầu tiên trong lòng đất
Trụ sở UBND xã Tân Phú Trung nhỏ bé nằm nép mình bên đường xuyên
Á mới toanh, to lớn, hiện đại vùn vụt xe cộ chạy qua. Xã nằm giữa đoạn Sài Gòn
đi Củ Chi về hướng Tây Ninh. Ông Hai Nhân, một cán bộ của Mặt trận Tổ quốc xã,
xăng xái dắt tôi đi tìm bà Bảy Mia, không quên tranh thủ giới thiệu đầy vẻ tự
hào: “Ở đây đường giao thông nông thôn đều nhựa hết rồi !”.
Quả vậy. Đường đẹp thì nhà cũng đẹp. Thấp thoáng dưới những tán
xanh vườn tược là những ngôi nhà mái ngói êm đềm. Cảnh thanh bình như muốn rủ
rê bất cứ lữ khách nào ghé vào vườn, đánh một giấc trưa nồng nàn dưới tán me,
gốc ổi… Bà Bảy Mia vừa bán sữa đậu nành cho mấy đứa nhỏ học Trường mẫu giáo
Bông Sen, vừa đưa tay chỉ: “Ở dưới nền trường đó cũng là địa đạo, chạy dài từ
đó ra tới Đồng Trảng, cả cây số có dư”.
“Hồi đầu nhà tui làm hầm bí mật trốn Pháp. Ở đây nhà nào cũng
vậy”, bà kể. Vì là hầm bí mật nên của ai nấy biết. Có người đào hầm dưới chiếc
phản trong nhà, phía dưới lu nước hoặc giữa lòng giếng khơi: ở bên thành giếng
trổ một ngách vào lòng đất. Phổ biến nhất là hầm đào dưới những bụi gai mây
hoặc giữa bụi tre. Đó thường là những bụi tre bình thường được trồng làm ranh
giới hàng rào giữa các vườn nhà.
Được trồng từ đời này sang đời khác nên chúng mọc bít bùng, rậm
rạp. Hầm được đào dọc theo các bụi tre và miệng hầm trổ lên giữa bụi. Khi có
động thì khéo léo trèo vào giữa bụi tre, thả mình gọn gàng xuống miệng hầm nhỏ
nhắn chui vừa đủ thân người.
Một kiểu khác phổ biến là kiểu hầm nằm ngay trên mặt đất bằng
phẳng, được đào ở bất kỳ đâu trong vườn, nơi địch ít ngờ nhất. Miệng hầm mở vừa
khít một thân người, đóng khung gỗ để tránh sạt lở. Khi có động, người cuối
cùng xuống hầm nâng nắp đậy lại, ngụy trang lá mục bên trên.
Ông Hai Thành (Phạm Tấn Thành) - nguyên là du kích Củ Chi, sau
này theo bộ đội chủ lực đầu quân cho trung đoàn Quyết Thắng (trung đoàn Gia
Định sau này), nguyên đại tá chủ nhiệm Cục Hậu cần Quân khu 7, nay là chủ tịch
Hội Cựu chiến binh huyện Củ Chi - vừa cười vừa kể: “Hồi đó tôi còn nhỏ, nghe kể
lại là ở Tân Phú Trung có hai ông nọ theo Việt Minh đánh Tây, bị nó ruồng bố
nên đào hầm bí mật trốn. Hầm bí mật nên mỗi ông tự đào, ai đào nấy biết. Bỗng
hôm nọ hai ông đào… phụp hầm nhau (thông nhau). Vậy là ý tưởng nối thông các
hầm bí mật thành địa đạo ra đời”.
Ông Sáu Liễng (Võ Tấn Tạo), một trong những người đầu tiên bổ
nhát cuốc vào lòng đất làm nên địa đạo Tân Phú Trung - Phước Vĩnh An, chia sẻ:
“Chuyện vì sao địa đạo ra đời thì có nhiều giai thoại lắm nhưng chính là như
thế này: vì mỗi nhà làm hầm bí mật một phách nên kỹ thuật ngụy trang chưa tốt,
thỉnh thoảng địch vẫn phát hiện được. Trong khi đó lúc này giặc Pháp ruồng bố
rất tàn khốc. Trận càn nào của giặc cũng có người chết chóc, phụ nữ bị hãm
hiếp.
Vì thế đến năm 1946, chi bộ xã quyết định những đồng chí cùng
hoạt động, những gia đình thân thuộc ở kế cận nhau nên trổ vách trú ẩn chung.
Cứ bình quân năm nhà kế cận thì đào liên thông nhau. Từ đó địa đạo ngũ gia hình
thành”. “Nói là ngũ gia nhưng thật ra cũng có khi sáu gia đình, có khi ba gia
đình, tùy địa hình mà nối kết lại với nhau”, bà Bảy nói.
Nhà bà Bảy Mia, ông Tư Tò, Tư Tô, Hai Tí chung một địa đạo. Các
xóm Bà Giã, Cây Da, Bàu Sim, Giồng Sao, Phú Lợi lúc này hình thành một làng
ngầm trong lòng đất. Bình thường thì bà con vẫn ra ruộng ra đồng, nhưng khi có
động là tất cả đều rút xuống hầm bí mật, chỉ còn lực lượng dân quân, du kích
bên trên, vừa chống càn vừa dẫn dụ địch vào trận địa.
“Sống dưới địa đạo nó khổ trần ai khoai củ tụi bây ơi!...”, bà
Bảy nhớ lại và kêu trời. Bà sợ nhất là bị ngứa, bị lở loét. Dưới hầm sâu đất
ẩm, thiếu dưỡng khí lại tối tăm nên là điều kiện tự nhiên rất tốt cho các thứ
bệnh ngoài da.
Nhưng sợ nhất là bị giời leo: ban đầu da nóng như bị lửa đốt,
sau đó phồng rộp lên và chảy nước, lở loét rất khó lành. Vết loét do giời leo
còn độc địa ở chỗ là rất đau đớn, “đụng vào là thốn tới óc sọ”, bà Bảy Mia kinh
hoàng. “Sợ giời thì sợ nhưng Pháp nó tới là cũng vọt xuống con ơi. Pháp nó còn
ghê hơn!” - bà so sánh.
Những trận đánh đầu tiên từ địa đạo
|
Du kích Củ Chi chiến đấu tại chiến hào - Ảnh tư
liệu
|
Qua những năm 1950 thì chiến trường ngày càng thêm ác liệt.
Không còn những trận càn nhỏ lẻ nữa mà địch tập trung đánh phá bằng những
chiến dịch lớn với quân số đông và khí tài hiện đại hơn.
Lúc này từ các cửa địa đạo du kích đã trổ thêm hệ thống chiến
hào, hình thành các ổ chiến đấu, chặn giặc từ vòng ngoài, chuyển từ trốn
tránh sang phản công - phòng thủ.
|
Tìm cách trốn tránh trong lòng đất nhưng giặc Pháp được sự chỉ
điểm của Việt gian thì nó đâu có tha, khi phát hiện được chúng tìm mọi cách lần
theo đánh phá. “Nó lần theo đánh thì mình tìm cách đánh trả”, sự hình thành địa
đạo chiến ban đầu đơn giản như cách lý giải của ông Sáu Liễng.
Lúc này làng làng ấp ấp, người lớn thì vừa làm đồng làm ruộng
vừa đào địa đạo; trẻ con thì tiếp tế và vót chông. Ngay miệng địa đạo thường
được ngụy trang nhiều hố chông tre.
Chông tre chẻ đôi theo kiểu lá hẹ, ngâm dầm dề trong nước ao tù,
nước tiểu, nước rửa chén hoặc hầm phân heo nhiều ngày nên rất độc. “Thằng giặc
nào xui sập hố chông không lủng ruột chết ngay thì cũng bị phong đòn gánh (uốn
ván) mà chết trong đau đớn” - ông Sáu Liễng nói.
Nhưng không chỉ đánh Tây bằng chông một cách đơn giản vậy. Ông
Hai Thành cho biết về sau khi giặc qua được cửa ải đầu tiên (miệng địa đạo) và
lần dò vào sâu bên trong thì du kích tìm cách đánh khác: đường địa đạo đi
thẳng, du kích trổ một ngách ngang rồi đào song song, khoảng cách hai vách đất
chừng 1-2 phân.
Ở giữa hai vách khoét một lỗ nhỏ để quan sát. Khi địch lần theo,
phát hiện chúng vừa lò dò tới lỗ quan sát thì rút lao tre… xiên ngang hông,
bách phát bách trúng! Những thằng Tây bị xiên kiểu đó chỉ còn nước chịu chết vì
bọn tiếp ứng rất khó khiêng được xác ra do lao tre “đóng đinh” chúng vào vách
đất.
Tháng 7-1950, lần đầu tiên lính Pháp huy động cùng lúc năm tiểu
đoàn hành quân đánh phá vào Tân Phú Trung, Phước Vĩnh An với ý đồ phá hủy và
bóc dỡ hệ thống địa đạo kỳ lạ trong lòng đất. Cuộc đánh trả không cân sức kéo
dài suốt 15 ngày đêm... Cuối cùng lực lượng cách mạng buộc phải để người già,
trẻ em ra vùng kiểm soát vì không thể để người dân sống lâu trong lòng đất. Du
kích cũng lần theo địa đạo thoát khỏi vùng kềm tỏa.
Trận ác liệt thứ hai diễn ra vào ngày 27-1-1951. Quân Pháp tập
trung cả thủy - lục - không quân đánh phá ác liệt suốt bảy ngày đêm ở các xã An
Phú, Hòa Phú làm 153 cán bộ, chiến sĩ và dân thường tử vong.
Tháng 9-1952, trận lụt năm Thìn dữ dội gây ngập cả miền Đông Nam
bộ làm cho phần lớn hệ thống địa đạo hư hỏng. Đây là những năm tháng gian khó
nhất của quân và dân ở vùng khai sinh ra địa đạo. Nhân cơ hội này địch càng tập
trung đánh phá. Chúng dùng đại bác phá hủy nhiều hầm hào. Chúng chặt hết cây
cối, vườn tược và lùa đồng bào đi trước để chúng tiến phía sau, sục sạo tìm địa
đạo.
Nhiều đồng bào, chiến sĩ bị bắt, bị giết. Cuối cùng chúng đánh
bật được lực lượng vũ trang của ta ra ngoài và lập một tiền đồn tại ấp Cây Da
để bình định cả vùng. Trước tình hình đó, cách mạng đưa ra chủ trương “Trường
kỳ mai phục - Tích trữ lương thực - Chờ đợi thời cơ”.
Năm 1954, thời cơ đến. Nhân dân hai xã anh hùng Tân Phú Trung -
Phước Vĩnh An vùng lên san bằng bót Cây Da, tái hiện hình ảnh cuộc khởi nghĩa
Nam kỳ anh dũng. Nhưng lần này cuộc khởi nghĩa không bị dìm trong bể máu: cờ đỏ
sao vàng tung bay trên khắp quê hương anh hùng.
Địa đạo Củ Chi
Cư dân
khu vực đã đào các hầm, địa đạo riêng lẻ để tránh các cuộc bố ráp càn quét của
quân đội Pháp và để cung cấp nơi trú ẩn cho quân Việt Minh. Mỗi làng xây một
địa đạo riêng, sau đó do nhu cầu đi lại giữa địa đạo các làng xã, hệ thống địa
đạo đã được nối liền nhau tạo thành một hệ thống địa đạo liên hoàn, phức tạp,
về sau phát triển rộng ra nhiều nơi, nhất là 6 xã phía Bắc Củ Chi và cấu trúc
các đoạn hầm, địa đạo được cải tiến trở thành nơi che giấu lực lượng, khi chiến
đấu có thể liên lạc, hỗ trợ nhau.
Trong
thời gian 1961–1965, các xã phía Bắc Củ Chi đã hoàn thành tuyến địa đạo trục
gọi là "xương sống", sau đó các đoàn thể, cơ quan, đơn vị phát triển
địa đạo nhánh ăn thông với tuyến trục hình thành những địa đạo liên hoàn giữa
các ấp, các xã và các vùng. Bên trên mặt đất, quân dân Củ Chi còn đào cả một
vành đai giao thông hào chằng chịt nối kết với địa đạo, lúc này địa đạo chiến
đấu cũng được đào chia thành nhiều tầng, nhiều ngõ ngách. Ngoài ra, bên trên
địa đạo còn có rất nhiều ụ chiến đấu, bãi mìn, hố đinh, hầm chông... được bố
trí thành các cụm liên hoàn tạo ra trận địa vững chắc trong thế trận chiến
tranh du kích, gọi là xã chiến đấu.
Đến năm
1965, có khoảng 200 km địa đạo đã được đào. Về quy mô, hệ thống địa đạo có tổng
chiều dài toàn tuyến là trên 200 km, với 3 tầng sâu khác nhau, tầng trên cách
mặt đất khoảng 3 m, tầng giữa cách mặt đất khoảng 6 m, tầng dưới cùng sâu hơn
12 m. Lúc này, địa đạo không chỉ còn là nơi trú ẩn mà đã trở thành nơi sinh
sống, cứu thương, hội họp, kho chứa vũ khí...
Địa đạo
được đào trên một khu vực đất sét pha đá ong nên có độ bền cao, ít bị sụt lở.
Hệ thống địa đạo nằm sâu dưới lòng đất, có thể chịu được sức công phá của các
loại bom tấn lớn nhất của quân đội Mỹ. Không khí được lấy vào địa đạo thông qua
các lỗ thông hơi. Các khu vực khác nhau của địa đạo có thể được cô lập khi cần.
Cuộc
sống dưới địa đạo thiếu ánh sáng, ẩm ướt và nóng bức và điều kiện vệ sinh kém
nên hầu như đa số những người sống ở địa đạo đều bị ký sinh trùng, bạc da và các bệnh về xương. Ngoài ra,
việc thiếu thốn lương thực, thực phẩm và nhu yếu phẩm cũng là vấn đề lớn nhất
của cư dân địa đạo.
Quân đội Mỹ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã liên tục
tấn công vào hệ thống địa đạo bằng đủ phương tiện: bom, bơm nước vào địa đạo,
hơi ngạt... nhưng do hệ thống địa đạo được thiết kế có thể cô lập từng phần nên
bị hư hại không nhiều. Quân đội Mỹ đã áp dụng nhiều biện pháp để phát hiện các
cửa vào (được ngụy trang) và phát hiện các cửa thông gió (thường được đặt giữa
các bụi cây). Biện pháp hữu hiệu nhất là sử dụng chó nghiệp vụ. Ban đầu có một
số cửa vào và lỗ thông gió bị chó nghiệp vụ phát hiện do chó ngửi được hơi
người. Tuy nhiên, sau đó, những người ở dưới địa đạo đã dùng xà
phòng của Mỹ đặt ở cửa hầm và cửa thông gió nên chó nghiệp vụ không thể
phát hiện ra.
Hiện
nay, Ban Quản lý Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi (trực thuộc Bộ Chỉ huy Quân
sự thành phố Hồ Chí Minh) trực tiếp quản lý cả hai di tích địa đạo Bến Dược và
địa đạo Bến Đình. Khu di tích gồm có hệ thống địa đạo (Bến Dược, Bến Đình), đền Bến Dược, khu quản trị, khu dịch vụ, khu vực tái
hiện vùng giải phóng và vành đai diệt quân Mỹ, khu du lịch sinh thái - giải trí
ven sông Sài Gòn.
Địa đạo Củ Chi ở xã Phú Mỹ Hưng
Di tích
địa đạo Củ Chi ở xã Phú Mỹ Hưng nằm phía Bắc Củ Chi là một hệ thống gồm hầm,
địa đạo, giao thông hào, ụ chiến đấu, chủ yếu tập trung ở ấp Phú Hiệp thuộc xã
Phú Mỹ Hưng với diện tích gần 100 mẫu: Tây Bắc giáp sông Sài Gòn, Đông Bắc giáp
ấp Phú Lợi, Tây Nam giáp ấp Lộc Thuận, Lộc Hưng (Trảng Bàng) và Đông Nam giáp
ấp Phú Hòa. Chọn Phú Hiệp lập hệ thống địa đạo là bởi vùng đất cao, lòng đất
lẫn đá sỏi rắn chắc, có thể chịu sức ép bom 500kg và xe cơ giới của địch. Đây
là khu rừng chồi, tre và cao su lẫn lộn rất thích hợp cho địa hình du kích chiến.
Năm
1961, địa đạo ở xã Phú Mỹ Hưng chỉ là những đường hầm ngầm sâu trong lòng đất,
kéo dài vài chục thước, đôi khi giao nhau, chồng chéo... cốt tránh địch hơn là
đối phó. Năm 1962, khi cuộc chiến chống đế quốc Mỹ bước sang giai đoạn quyết
liệt, đồng chí Võ Văn Kiệt, lúc này là bí thư Khu ủy Sài Gòn - Gia Định chỉ thị
thành lập Ban chỉ đạo xây căn cứ có tên gọi là căn cứ Phú Hiệp do đồng chí Mười
Phước - chỉ huy trưởng, các đồng chí: Tư Đạt, Năm Long, Ba Lùn, Tư Hùng - ủy
viên và đồng chí Tám Trương - trưởng văn phòng cùng một số chiến sĩ thuộc tiểu
đoàn Vinh Quang.
Công
trình lấy ngày kỷ niệm thành lập Đảng (3 tháng 2) khởi công. Theo bản thiết kế,
địa đạo được xây dựng dựa theo kinh nghiệm từ trước, bằng cách cứ khoảng 16m
tạo một giếng, đường kính 0,6m, sâu 3m, khi giáp mí thì lấp miệng. Từ đáy giếng
dùng cuốc chim khoét sâu tạo địa đạo có chiều ngang 50cm, cao 80cm. Địa đạo gồm
các ngóc ngách theo thế vừa chiến đấu, vừa tiếp nối từ hầm này đến hầm khác
thành một thế liên hoàn được tính toán hết sức khoa học. Bởi vậy có những đoạn
cắt ngắn, có đoạn song song, đoạn giao nhau, đoạn trên đoạn dưới, vòng vèo,
quanh co, kéo dài đến trên 100 cây số.
Những
nơi giao nhau hoặc sắp vào miệng hầm, địa đạo hẹp dần, có khi phải trườn hoặc
chui vào miệng hầm. Những giao điểm đặc biệt của địa đạo có chốt an toàn. Chốt
là một khúc gỗ, đầu nhọn dài hoặc khối mủ cao su đường kính 40cm có dây dài. Để
bịt kín địa đạo chỉ cần kéo mạnh dây, nút thắt cao su, hoặc khúc gỗ sẽ bịt kín
đường hẹp địa đạo. Chốt an toàn nhằm ngừa địch sử dụng hơi cay hoặc bơm nước
độc xuống địa đạo.
Miệng
địa đạo là một trong những cấu trúc đặc biệt, rất tinh vi thường lẫn lộn trong
bụi rậm, gò mối, kích thước vừa vặn một người chui vào 30cm x 40cm. Nắp hầm là
mảnh gỗ dày 10cm, mặt khỏa cỏ tươi, chụp vừa miệng hầm. Những lỗ thông hơi được
tạo theo đường xiên 45o, núp trong các bụi rậm khó phát hiện. Tại các miệng
xuống địa đạo, thỉnh thoảng có bẫy chông, là mảnh ván bắc ngang, dưới đặt bàn
chông. Kẻ lạ bước lên, lập tức rơi xuống bẫy.
Địa đạo
ở xã Phú Mỹ Hưng chia làm 3 khu: Khu trung tâm dành cho các cán bộ lãnh đạo cao
cấp. Khu bên phải gồm hầm văn phòng và hầm hội họp. Khu bên trái nơi đóng quân
của tiểu đoàn Vinh Quang (đội phòng vệ). Điểm nổi bật của khu địa đạo ở xã Phú
Mỹ Hưng là các hầm âm trong lòng đất. Những căn hầm xây dựng cho văn phòng, y
tế, hậu cần, cơ yếu, văn nghệ... cả bếp Hoàng Cầm (bếp ém khói) tập trung khu
vực mạn Đông con suối Thai Thai gọi là vườn quít. Mỗi hầm cách nhau 50 đến 70m,
có kích thước như một hình vuông từ 3m đến 3,5m. Địa đạo nối các hầm thường
vòng vèo và qua một chốt bảo vệ.
Hầm tại
khu trung tâm được mô tả như là một trong những kỳ công của khu địa đạo Phú Mỹ
Hưng. Tại đây có hầm làm việc của Chính ủy, Tư lệnh và Phó tư lệnh, các khu ủy
và hầm họp. Mỗi hầm cách nhau khoảng 400 đến 500m, thông nhau qua địa đạo. Tất
cả những hầm này đều xây dựng trong khu vực đất rắn pha đá sỏi, nằm sát mí vườn
nhà của hai ông: Hai Bao và Tám Cắt. Trước tiên hầm hình thành như một hố sâu,
ngang 2m, rộng 3,5m, sâu 3,5m (kể cả nóc hầm cách mặt đất 1,8m).
Nóc hầm
được làm bằng các đà bê tông thả ngang, sau đó lấp kín hoàn toàn bên trên.
Trong hầm, hai bên vách có giàn cây chịu lực hình chữ A có thể mắc võng nằm.
Một số hầm có trét xi-măng chống thấm. Miệng hầm nối địa đạo thường qua một chốt
gác. Từ đây, địa đạo có ngã rẽ chia hai. Một địa đạo đặc biệt dẫn dài đến mé
sông Sài Gòn và trổ lên trong bụi ô rô. Khi có mật hiệu, ghe bên kia sông sẽ
sang rước khách đặc biệt vào căn cứ Thanh Tuyền (bên kia sông Sài Gòn thuộc
Bình Dương).
Các hầm
trong khu trung tâm đều có dạng cấu trúc tương tự và đều có địa đạo riêng thông
với địa đạo đặc biệt nhằm đối phó khi có tình huống nguy hiểm. Trong thời gian
tạm lánh tại địa đạo Phú Mỹ Hưng, các đồng chí cán bộ lãnh đạo cấp cao thường
lên khỏi địa đạo đến thăm, đàm đạo với người dân trong ấp cũng như gia đình ông
Hai Bao và Tám Cắt. Khu bên trái tức khu bố phòng của tiểu đoàn Vinh Quang với
số lượng hầm ít hơn, cấu trúc thông thường như hầm hành chánh, kích thước 3m x
3,5m. Một chiến tuyến vững chắc hình thành một vòng cung bảo vệ khu trung tâm
là một hệ thống giao thông hào xen kẽ ụ chiến đấu.
Giao
thông hào sâu từ 1,2m đến 1,4m, ngang 0,5m, chạy vòng vèo theo địa hình và kỹ
thuật chiến đấu, cắt quãng hoặc tiếp nối các ụ chiến đấu. Uụ chiến đấu sử dụng
bắn máy bay gồm rãnh tròn đường kính 3m bao quanh mô đất cao quá đầu người, ở
giữa. Xạ thủ dùng mô đất vừa đặt súng, vừa làm vật cản, chạy quanh mô đất núp
bắn máy bay địch. Có ụ chiến đấu là hố sâu chứa từ 3 đến 5 người. Xạ thủ bố trí
nhiều mặt chiến đấu. Trong khu địa đạo Củ Chi có một giao thông hào song song
con lộ 6 bố trí nhiều ụ chiến đấu, trang bị hỏa lực mạnh nhằm lừa địch, nhử
địch, chặn địch và tiêu diệt địch. Ngoài ra bốn mặt khu địa đạo Phú Mỹ Hưng
(căn cứ Phú Hiệp) còn có 4 trạm thông tin, báo động, trang bị máy móc hiện đại.
Những
đồng chí lãnh đạo cấp cao thường đến làm việc và ở tại căn cứ Phú Hiệp đôi lần
trong thời gian vài ngày đến vài tháng như:
· Đ/c Nguyễn Văn Linh (bí thư Khu ủy Sài Gòn -
Gia Định từ 1965 - 1975);
· Đ/c Võ Văn Kiệt (bí thư Khu ủy Sài Gòn - Gia
Định từ 1960 - 1965);
· Đ/c Trần Bạch Đằng - Uủy viên thường vụ Khu ủy
(1960 - 1965), bí thư Phân khu 6 (tháng 10 - 1967);
· Đ/c Mai Chí Thọ - phụ
trách An ninh (1965 - 1975);
· Đ/c Uút Một - Khu ủy viên
phụ trách Tuyên huấn;
· Đ/c Nguyễn Văn Tứ - Khu
ủy viên phụ trách Tổ chức công an;
· Đ/c Năm Đang - Khu ủy
viên phụ trách Tổ chức phụ nữ;
· Đ/c Hai Mơ - Khu ủy viên
phụ trách Quân sự;
· Đ/c Tám Lê Thanh, Trần
Hải Phụng...
Tháng 1/1966, Mỹ huy động
hàng ngàn tăng, pháo binh, không quân, hải quân và trên 3.000 quân đổ xuống
vùng tam giác sắt (bao trùm cả địa đạo Phú Mỹ Hưng). Đây là trận càn mang tên
Crimp (cái bẫy) với đầy đủ vũ khí, kỹ thuật tối tân, cốt phá hệ thống địa đạo.
Các du kích luồn trong địa đạo, lúc ẩn lúc hiện, đánh phủ đầu rồi lại biến mất.
Cuộc hành quân tốn kém nhưng không thực hiện được ý đồ, nên một năm sau, ngày
8/1/1967, địch tiếp tục mở cuộc càn lớn mang tên Cedarfall với trên 12.000 quân
lính đủ các binh chủng, được yểm trợ tối đa của phi cơ, pháo binh, thiết giáp
đánh phá ác liệt khu địa đạo Phú Mỹ Hưng và phụ cận.
Chúng đưa pháo đài bay
B52 rải thảm bom, dội pháo từng đợt, sau đó đưa trực thăng đổ quân ào ạt. Một
đại đội chuyên phá hầm và địa đạo, được huấn luyện tại Đồng Dù, sử dụng chó,
súng phun lửa, hóa chất, xe ủi hạng nặng và hàng chục trực thăng chở nước bơm
xuống địa đạo. Chúng dùng xe ủi đất 60 tấn, có móc thọc sâu xuống địa đạo đoạn
đưa mìn vào đánh. Chúng chia mỗi tốp 4 tên, hai tên xuống địa đạo, trang bị mặt
nạ, đặt mìn, chuyền dây phá địa đạo. Dùng bom xăng đặc, đốt cháy cả khu rừng,
biến xóm làng thành bình địa. Nhiều đoạn địa đạo sụp, xóa mất các chốt, các
miệng hầm. Mỹ thú nhận: "tìm thấy miệng địa đạo, nhưng thiếu kinh nghiệm,
không thu được gì!".
Giữa tháng 3/1967, Mỹ lại
tiếp tục mở trận càn Manhattan, sử dụng tăng kèm bộ binh từ Đồng Dù càn lên căn
cứ Phú Hiệp (địa đạo Phú Mỹ Hưng). Du kích sử dụng B40 và B41. Trận chiến diễn
ra ác liệt. Địch gọi B52 rải bom. Vài đoạn địa đạo bị sụp so với hàng chục cây
số địa đạo. Lại thất bại trong mưu đồ "xóa sổ" khu địa đạo Phú Mỹ
Hưng, địch sử dụng cỏ Mỹ (loại cỏ gặp mưa phát triển rất nhanh) cao từ 2 đến
3m, thân to và sắc, lấn át các thứ cỏ khác, gây khó khăn đi lại và rất dễ phát
hiện dấu vết. Mùa khô chúng đốt cỏ nhằm phát hiện miệng địa đạo, rải máy đếm
tiếng động của người để gọi pháo dập, hoặc gài mìn râu, mìn cóc và tiếp tục mở
hàng trăm cuộc càn phá lẻ tẻ nhưng tất cả đều phá sản. Các chiến sĩ vẫn tiếp
tục tập kích, lúc ẩn lúc hiện, chặn đầu, khóa đuôi, gây tổn thất nặng nề cho sư
đoàn "Tia chớp nhiệt đới", "Anh cả đỏ" và sư đoàn 25 ngụy,
làm cho địch bàng hoàng, sửng sốt.
Ngày nay, để tưởng nhớ
công lao bao chiến sĩ anh dũng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và đất
nước, một khu đền tưởng niệm được xây dựng hết sức trang trọng và uy nghi tại
Bến Dược. Trên văn bia đặt trước đền có đoạn ghi "...Chiến thắng lớn đến
từ hy sinh to lớn. Ai đếm khăn tang, ai đong máu chiến trường? Con của mẹ ra đi
không bao giờ trở lại, mẹ khóc mỗi hoàng hôn... chim bay về núi tối
rồi...". Địa đạo Phú Mỹ Hưng được Bộ Văn hóa cấp bằng công nhận di tích
theo quyết định số 54/VHQĐ ký ngày 29/4/1979.
Là loại bếp
dã chiến, mang tên đồng chí Hoàng Cầm (1916-1996), quê ở thị trấn Tam Đảo,
huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc, nguyên là Tiểu đội trưởng nuôi quân thuộc Đội
điều trị 8 Sư đoàn 308, sáng tạo ra từ chiến dịch Hoà Bình năm 1951. Bếp Hoàng
Cầm được sử dụng từ năm 1951-1952, nhanh chóng phổ biến ở các đơn vị. Đặc biệt,
bếp Hoàng Cầm được sử dụng rộng rãi tại các đơn vị tham gia chiến dịch Điện
Biên Phủ, kể cả dân công hoả tuyến. Sau này bếp được cải tiến, hoàn thiện và sử
dụng trong kháng chiến chống Mỹ như ở địa đạo Vĩnh Linh, địa đạo Củ Chi....
Cách làm bếp Hoàng Cầm như sau: Bếp được đào dưới đất thành một hầm chữ nhật,
chiều dài 1,5 đến 1, 8 mét, chiều rộng 1, 2 đến 1,5 mét, sâu 0,70 đến 0,80 mét
gồm: Hồ đun, trên đặt nồi (chảo), hố ngồi nấu ( dành cho người nấu), trên có
mái che tránh mưa, nắng, bụi ( mái che là tán cây, hoặc gác cành cây trên lợp
bằng cỏ tranh hay đóng cọc căng tăng che). Hố đun, hố ngồi nấu tuỳ thuộc vào tình
hình cụ thể như vị trí khu đặt bếp, kích thước nồi, chảo, chiều cao trung bình
của người nấu mà đào hố cho vừa đủ chỗ đặt nồi, thao tác khi nấu và chứa củi.
Từ hố đun, đào một hệ thống hai đường đường dẫn khói, tản khói. Cách một đoạn
đào một hầm chứa khói. Từ hầm chứa khói làm hai đường rãnh vừa để tản khói vừa
là rãnh thoát nước. Trên rãnh đặt những cành cây và phủ một lớp đất mỏng được
tưới nước để giữ độ ẩm. Khi đun, khói từ trong lò bếp bốc lên qua các đường
rãnh dân khói chỉ còn là một dải hơi nước tan nhanh khi rời khỏi mặt đất. Do đó
có thể nấu bếp ban ngày, ngay cả khi máy bay trinh sát của đối phương bay trên
đầu không bị lộ khói và lửa, kể cả khi đun củi còn ướt.
Đại tá,
Giáo sư - Tiến sỹ Đặng Hiếu Trung, nguyên là chuyên viên đầu ngành của Khoa Tai
mũi họng Bệnh viện Quân y 108 cho biết: Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ông là
Đội trưởng Đội Điều trị 8, thuộc Đại đoàn 308. Đội điều trị 8 đóng cạnh suối
Hồng Lếch, cách hầm Đờ Cát chỉ 4 km đường chim bay về phía tây. Đội Điều trị 8
có trên 100 người cộng với thương binh vì thế mặc dầu trong hoàn cảnh chiến
trường, khó khăn, thiếu thốn, bom đạn của kẻ thù nhưng Tiểu đội trưởng nuôi
quân Hoàng Cầm cùng tổ nuôi quân vẫn đảm bảo cơm nóng, canh ngọt cho Đội và
thương binh.
Trong hồi ức “Đường tới Điện Biên Phủ” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (NXB QĐND-
2001), có đoạn viết: “Sẽ là một thiếu sót nếu không nhắc ở đây một sáng kiến đã
mang lại sự cải thiện rất quan trọng trong đời sống các chiến sỹ ngoài mặt
trận. Khói lửa từ những bếp của anh nuôi đã nhiều lần làm lộ vị trí trú quân,
dẫn đến những tổn thất xương máu.... Một chiến sỹ nuôi quân ở trạm quân y của
Đại đoàn 308 có sáng kiến đào những đường rãnh thoát khói bên sườn núi, nối
liền với lò bếp, bên trên rãnh đặt những cành cây và phủ một lớp đất mỏng được
tưới nước để giữ độ ẩm. Khói từ trong lò bếp bốc lên qua một đường rãnh chỉ còn
là một dải hơi nước tan nhanh khi rời khỏi mặt đất. Từ đó anh nuôi có thể thổi
nấu ban ngày, ngay cả khi máy bay trinh sát địch bay trên đầu được ăn cơm nóng,
uống nước nóng
Đền tưởng niệm Bến Dược - Củ Chi
Cổng tam quan
Được thết kế theo phong cách cổ truyền của dân tộc với
các hàng cột tròn, trên lợp ngói âm dương. Cổng có hoa văn, họa tiết, mái cong của những cổng đình
làng nhưng được cách tân bởi những vật liệu mới. Chính giữa cổng tam quan là
biển đề: Đền Bến Dược và trên các thân cột là những câu đối của nhà thơ Bảo Định Giang:
Trải tấm lòng son vì đất nước,
Đem dòng máu đỏ giữ quê hương
Lòng biết công ơn nhang thơm một nén
Đời còn bóng dáng sao sáng ngàn năm
Nhà văn bia
Cổng Tam Quan và Nhà văn
bia
Là một nhà vuông có hai mái, lợp ngói, ở giữa đặt một tấm
bia đá cao 3m, ngang 1,7m, dày 0,25m, nặng 3,7 tấn. Tấm bia đá này được lấy từ
khối đá nặng 18 tấn ở Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng) và được các nghệ nhân đẽo gọt, chạm khắc những hoa văn
độc đáo của dân tộc.
Tấm bia đá khắc bài thơ của Viễn Phương , đây được xem là bảng hùng ca về đất và người Củ Chi
vực dậy lòng tự hào dân tộc, tự hào về quá khứ hào hùng của cha anh. Bản hùng
ca giáo dục thế hệ trẻ với ngôn từ giàu sức biểu cảm, hào hùng và là một trong
những bài văn bia được rất nhiều du khách khi đến nơi đều ghi chép lại.
Nhà thơ Viễn Phương
Sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Viễn Phương gắn liền với
hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Nhiều tác phẩm xuất sắc của ông như
Chiến thắng Hòa Bình, Anh hùng mìn gạt, Quê hương địa đạo... ra đời trong chiến
trường Nam Bộ, nhà tù Mỹ - Diệm hay địa đạo Củ Chi. Truyện ngắn và ký của Viễn
Phương cũng được đánh giá rất cao.
Chi đội này hoạt động trên một địa bàn rộng lớn thuộc đồng
bằng sông Cửu Long. Từ cảm xúc có thật trên mỗi chặn đường chiến đấu gian khổ,
những bài thơ của ông đã lần lượt ra đời, và được đăng trên báo 'Tiếng Súng
Kháng Ðịch', là tờ báo duy nhất của Khu 9 Nam Bộ lúc bấy giờ.
Năm 1952, Nam Bộ tổ chức giải thưởng tổng kết văn học
nghệ thuật lấy tên Giải thưởng Cửu Long, thì trường ca 'Chiến thắng Hòa Bình'
của ông được xếp giải nhì về thơ.
Không lâu sau, Chi hội Văn nghệ Nam Bộ tổ chức đại hội,
ông được bầu vào Ban chấp hành. Năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc,
ông được phân công về Sài Gòn hoạt động.
Về Sài Gòn, ông đi dạy học, làm thuê kiếm sống nhưng công
việc chủ yếu vẫn là sáng tác văn thơ. Với bút hiệu Viễn Phương, ông làm thơ và
viết truyện đăng trên một số tờ báo ở Sài Gòn như Nhân loại, Hừng sáng, Công
lý...
Do những bài viết có nội dung chống đối, năm 1960, ông bị
nhà cầm quyền Sài Gòn bắt giam ở Chí Hòa. Trong tù, ông vẫn tiếp tục làm thơ.
Sau khi ra tù (1962), ông rời Sài Gòn vào chiến trường Củ
Chi tiếp tục chiến đấu và làm thơ.
Sau sự kiện 30 tháng 4, 1975, ông liền được bầu làm Chủ
tịch Hội Văn nghệ Giải phóng Thành phố Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội liên hiệp Văn
học Nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh và được bầu vào Ban chấp hành Hội Nhà văn
Việt Nam.
Ngoài bút danh Viễn Phương, ông còn lấy bút danh 'Phương
Viễn' và cũng sáng tác cả văn xuôi. Ông nổi tiếng với bài thơ 'Viếng lăng Bác'
(Kim Son phổ nhạc) đã được đưa vào giảng dạy ở trường phổ thông. Ông được tặng Giải
thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm
1995.
Nhà thơ Viễn Phương mất ngày 21 tháng 12 năm 2005 tại
Thành phố Hồ Chí Minh.
· Nội dung bài văn bia:
Vùng đất sáng ở Miền Nam
Tổ quốc, nửa tiếp Trường Sơn, nửa nối đồng bằng. Chống xăm lăng từ Trương Định,
Trương Quyền, máu dũng sĩ chảy tràn sông suối. Thuở đất nước đắm
chìm trong tăm tối, Nguyễn Tất Thành tím ruột xót non sông, tìm hướng tương
lai, khói phủ Bến Nhà Rồng. Tiếng máy chém đầu văng trong ánh thép, nhân
dân quằn quại dưới xiềng gông, đạn bom rơi xác ngã chất chồng, người chết không
yên, tan mồ nát mả. Giặt quyết đẩy dân ta lùi về thời đồ đá.
Tiếng Bác Hồ: "Dù
đốt chảy dãy Trường Sơn..." Muôn triệu trái tim sôi sục căm hờn. Đôi tay
yếu mẹ đẩy lùi máy chém, tấm thân gầy mẹ cản xích xe tăng. Nước mắt chảy vào
tim mẹ tiễn con ra trận. "Không có gì quý hơn độc lập tự do" lớp lớp
lên đường.
Tuổi trẻ ! Tuổi anh
hùng như đại bàng vỗ cánh "Đâu có giặc là ta cứ đi!" Thành phố Sài
Gòn, vì sao lấp lánh: Thề chết đứng chẳng sống quỳ. Những đoàn quân đẹp tợ
thiên thần, đạp đỉnh Trường Sơn, vượt sông Cửu Long tiến về Thành phố. Đêm lảnh lót tiếng ca
quan họ, nghe ngọt ngào điệu hát cải lương, họ mái đẩy ngân nga dìu dặt, giọng
bài chòi tha thiết nhớ thương. Mừng họp mặt bốn phương dũng sĩ, quê hương ta ra
ngõ gặp anh hùng. Lính chủ lực về quê mình làm du kích. Cả nước vì Sài
Gòn vì cả nước quyết hy sinh. Moi ruột đất ẩn sâu vào lòng đất, trái tim
thành chiến hào, ánh mắt hóa vì sao, bàn tay thành lưỡi kiếm. Vũ khí thô
sơ ngựa trời, mìn gạt, địa đạo dài theo thế trận lòng dân, du kích lập vành đai
diệt Mỹ, bắn tỉa ngày đêm xuất quỷ nhập thần. Biệt động Thành đánh giữa
Sài Gòn, tàu chiến sân bay, kho xăng bốc nổ - lòng dân lửa dậy, ngày xuống
đường, đêm không ngủ, đạp rào gai, che họng súng, liều thân mình cho Tổ quốc
tồn sinh. Lũ giặc nước kinh tâm, bom tấn, pháo bầy, thần sấm, con ma,
B52 rãi thảm.
Thần, người căm giận.
Ầm, Ầm chiến dịch Hồ Chí
Minh.
Như bão gầm, như thác lũ,
dũng tướng, tinh binh, bạt núi, san đèo, tiến về Thành phố.
Rạp trời cờ đỏ
Trúc chẻ ngói tan
Quét sạch hung tàn
Quê hương giải phóng
Chiến thắng lớn từ hy sinh to lớn.
Ai đếm khăn tang, ai đong máu chiến trường?
Con của mẹ ra đi không bao giờ trở lại, mẹ
khóc mỗi hoàng hôn...chim bay về núi tối rồi.
Máu hồng toả hương chính khí
Nhân kiệt làm nên địa linh.
Đất nước lớn vì nhân dân anh hùng,
Nhân dân lớn vì tấm lòng yêu nước.
Người đang sống nhớ thương người đã khuất,
Khắc đá làm bia dựng giữa đất trời.
Những anh liệt như ngàn sao tỏa sáng,
Đời đời sau chiếu mãi giữa tim người.
Đền chính
Kiến
trúc mang dáng dấp đền đài cổ của Việt Nam.
Điện thờ bố trí theo hình chữ U: trung tâm là bàn thờ tổ quốc trang nghiêm được
bố trí theo kiểu đình Việt Nam. Chính giữa có tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh, phía
trên ghi: Vì nước quên mình.
Tổ quốc
ghi công
Đời đời
ghi nhớ.
Tả, hữu
là hai hương án thờ các bậc tiền hiền tiên liệt và đồng bào, chiến sĩ đã hy
sinh, chưa tìm được tên. Hai bên là 2 bức tượng hạc đội rùa oai nghiêm và linh
thiêng.
Dọc
theo các bậc tường bên trái là tên liệt sĩ khối dân chính Đảng, các bậc tường
bên phải là tên liệt sĩ lực lượng võ trang. Đây được xem là nơi chứa danh sách
các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống, hy sinh vì đất nước cùng tụ hội về đây. Có
tất cả 44.379 bia anh hùng liệt sĩ được tạc tại gian chính điện cùng phối thờ.
Phía
bên phải chính điện có để một cái trống to lớn.
Tháp
Tháp
chính đền Bến Dược
Thể
hiện cho sự vươn lên đỉnh cao trong tương lai. Tháp có 9 tầng cao 39m, trên
vách tháp có nhiều hoa văn, phù điêu thể hiện cuộc sống và chiến đấu của nhân
dân Củ Chi Đất thép thành đồng.
Hoa viên
Hoa
viên rộng lớn là nơi sinh hoạt dã ngoại, và là không gian xanh của khu di tích.
Tượng đài sông Bến Dược
Tượng
đài cao 16m, nặng 243 tấn, được làm bằng đá granit đặt giữa vườn hoa mặt hướng
ra sông Sài Gòn. Biểu tượng được thể hiện qua hình tượng một giọt nước mắt,
khái quát về sự đau thương mất mát của bao thế hệ người Việt Nam đã chiến đấu
hy sinh để giữ gìn đất nước.
Tầng hầm
Tầng
hầm của đền có 9 không gian, với chủ đề Sài Gòn Chợ Lớn kiên cường bất khuất,
thể hiện lại các sự kiện tiêu biểu trong giai đoạn chiến tranh của quân và dân
trong vùng tam giác sắt nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung chống lại cuộc
chiến tranh phi nghĩa của đế quốc và bọn tay sai. Các sự kiện ấy được tái hiện
sinh động bằng những bức tranh hoành tráng, tượng, sa bàn, hiện vật, mô hình
sân khấu hóa, các loại hình nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc . . .
Bức tranh gốm lớn nhất Việt Nam
Bức
tranh gốm này gồm 3 tấm, ốp trên tường mặt ngoài của đền Bến Dược (Củ Chi) vào
tháng 8/2001. Tác phẩm do các giảng viên - họa sĩ trường Đại học Mỹ Thuật
TP.HCM thể hiện qua ba bức tranh tường hoành tráng, ca ngợi lịch sử khai phá,
xây dựng và bảo vệ vùng đất Sài Gòn
- Gia
Định từ xưa đến ngày đại thắng mùa xuân 1975.
Tranh
được ghép bởi các viên gạch gốm kích thước 20 x 20cm và 10 x 10cm. Bức thứ nhất
diễn tả nội dung “Dân khai hoang, Thần lập xứ”, thể hiện 5 chương:
chương thứ nhất: đấu tranh với thiên nhiên trong quá trình chinh phục miền
đất mới; chương thứ hai là khai hoang; chương thứ ba: ở giữa là
người có công mở đất: Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, bên phải mô tả
sinh hoạt kinh tế: xây thành, lập chợ…, bên trái là sinh hoạt văn
hóa như: đám rước, múa lân; chương thứ tư là thành quả trong
cuộc sống và chương thứ năm là đấu tranh chống xâm lược.
Bức này
do 3 giảng viên của trường Đại học Mỹ Thuật sáng tác
và thi công: Nguyễn Trung Tín, Nguyễn Đức Hòa, Nguyễn Quang Cảnh. Bức thứ
hai thể hiện nội dung “Sức tiếp sức chống xâm lăng”, tác phẩm này cũng
thể hiện năm nội dung: đường Hồ Chí Minh trên biển, chi viện từ hậu
phương lớn, xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, lớp lớp thanh niên lên
đường, chi viện tại chỗ: miền núi, Tây Nguyên, đồng bằng. Chi
viện từ trong lòng địch và cuối cùng là hoạt động nội thành. Tác
phẩm này do các họa sĩ: Lê Đàn, Phan Hoài Phi, Phan Phương Trực, Nguyễn Xuân Đông, Đỗ Mạnh Cường thể hiện. Bức
cuối cùng thể hiện hai giai đoạn lịch sử. Phần một “Nhân dân ta bị đô hộ áp
bức”, phần hai là “Đoàn kết, đấu tranh giành thắng lợi”. Tác phẩm
này do ba giảng viên thực hiện đó là họa sĩ Hoàng Trầm, Nguyễn Quang Vinh, Nguyễn Huy Khôi. Để hoàn
thành bức tranh gốm lớn nhất này các hoạ sĩ đã làm việc liên tục bốn năm với
hàng trăm phác thảo, thể hiện trên giấy theo tỷ lệ 1/1, rồi lại thể hiện lên
gạch gốm sau đó tô màu, rồi phơi cho khô màu và đem bỏ lò nung thử nghiệm nhiều
lần tại lò gốm của ông Nguyễn Hải Bằng, xã Phú Mỹ,
tỉnh Bình Dương.
Khu du
lịch sinh thái văn hoá dân tộc thiểu số Củ Chi
Chuyến
hành hương về Củ Chi không phải để trở về địa đạo một thời anh hùng của người
dân đất thép mà là để tìm về chốn yên bình với thiên nhiên, với những gì hoang
sơ và độc đáo.
Khu du lịch sinh thái văn hóa dân tộc thiểu số
Củ Chi
Chỉ
cách trung tâm Tp.HCM 50km, nghĩa là khoảng hơn một giờ đi xe máy thôi, nhưng ở
khu du lịch sinh thái văn hóa dân tộc thiểu số Củ Chi, hơi thở gấp gáp và cái
dáng vẻ vội vã quay quắt của thành phố dường như không còn nữa. Người ta tạm
quên mình còn công việc và cả những mối lo toan, để những nhân viên hướng dẫn
đưa đi hết 20ha của khu sinh thái.
Những
cỗ xe ngựa mộc mạc thay cho xe gắn máy lộc cộc gõ móng trên lối nhỏ sẽ đưa
chúng ta dạo quanh khu du lịch. Hoa viên phượng vĩ vào mùa rực lửa, cháy khát khao
nỗi niềm mùa hạ. Khu biểu diễn vịt độc đáo đến mức nhiều người nghĩ họ đang
được đến vườn chim Jurong ở Singapore. Khác chăng chỉ là màn biểu diễn của gần
300 diễn viên vịt nhào lộn hết sức ngoạn mục thay cho tiếng chim hót. Bỏ lại sự
ồn ào của những chú vịt, chúng tôi đến sân khấu ca múa nhạc dân tộc thiểu số.
Những vũ điệu, lời ca của người dân Tây Nguyên như nhắc con người sống có tình
hơn. Đến Mê Cung Trúc, không chỉ giới trẻ mà cả người có tuổi đều thích thú với
sự bất ngờ của khu nhà 5 căn được làm từ hơn 2.000 cây trúc. Nơi đây, những lối
đi ngắt khúc, quanh co và cả những lối đi ảo trong mỗi tầng nhà khiến người
chơi trò mê cung khó tả hết cảm giác hồi hộp. Cơm lam, bánh tráng phơi sương,
bánh kẹp đậu phộng hay rượu cần chỉ là vài món ăn dân dã mà người dân tộc ưu ái
mời khách nếm qua, để thấy cái tình người nơi đây nó đậm đà, thơm thảo lắm.
Trước khi về với hiện đại của thành phố, đừng quên mua vài món quà thủ công mỹ
nghệ của các dân tộc thiểu số ở gian hàng bán quà lưu niệm, để nhớ mình đã có lần
về với Củ Chi.
Ấp 4, xã Nhuận Đức, Củ Chi, TP Hồ Chí Minh.
Điện thoại: (84-8) 792 8922
Làng
nghề Một thoáng Việt Nam
Làng
nghề truyền thống Một thoáng Việt Nam nằm ven sông Sài Gòn thuộc xã An Phú
của vùng đất thép thành đồng Củ Chi, cách trung tâm TP.HCM khoảng 60 km.
Được triển khai đầu tư xây dựng từ năm 1991 với mục tiêu không chỉ làm du lịch
mà còn nhằm khôi phục, phát triển nghề truyền thống dân tộc, tạo việc làm cho
người dân địa phương. Kinh phí đầu tư đến nay đã hơn 98 tỷ đồng.
Khu du
lịch “Một Thoáng Việt Nam” là một quần thể làng nghề thủ công truyền thống, với
diện tích 22,5 ha đất bưng biền, nằm cạnh rạch Bò Cạp, gần sông Sài Gòn. Khu du
lịch bao gồm 30 hạng mục với: đền thờ đất nước, sa bàn nước Việt Nam, lầu vọng,
ba khu tiêu biểu cho ba miền đất nước. Bên cạnh là khu văn hóa ẩm thực, đảo
nuôi chim thú tự nhiên, khu chợ hàng tiểu thủ công nghiệp, chợ trên sông, vườn
cây ăn trái…
Gọi là
làng nghề vì Một thoáng Việt Nam tập hợp nhiều nghề đặc thù, nổi tiếng từ nhiều
miền đất nước như nghề làm giấy dó, dệt tơ lụa, thổ cẩm, mộc, thêu, tranh ghép
gỗ, gốm sứ, chế biến mía đường, đan lát mây tre, v.v…
Các
nghệ nhân, thợ thủ công hay nông dân đều là “người thật việc thật”, không phải
là kẻ sắm vai. Họ đang làm đúng công việc quen thuộc, đúng nghề cha truyền con
nối của mình. Chỉ khác ở chỗ, họ được tập trung vào cùng một nơi và không phải
lo đầu ra cho sản phẩm.
Ở đây,
những người thợ thủ công, nông dân, nghệ nhân… thuộc nhiều dân tộc khác nhau,
đến từ những miền quê khác nhau cùng lao động sản xuất bên nhau trong một số
nghề truyền thống tiêu biểu như: đan lát mây tre, dệt tơ lụa và thổ cẩm, gốm
sứ, chằm nón, thêu ren, làm giấy dó, in khắc tranh, điêu khắc đá, điêu khắc
mộc, chế biến mía đường, canh tác lúa nước, nuôi trồng thủy sản, ươm trồng hoa lan,
cây cảnh, chăn nuôi gia súc, gia cầm…Du khách khi đến thăm khu du lịch “Một
Thoáng Việt Nam” sẽ lưu lại những ấn tượng sâu sắc về đất nước Việt Nam.
Một
thoáng Việt Nam cũng chính là một bảo tàng ngoài trời khi có nhiều khu trưng
bày hàng trăm hiện vật cổ, từ trống đồng đến cọc gỗ Bạch Đằng thứ thiệt mà
không phải bảo tàng nào cũng có được.
Đặc
biệt khu tái hiện kiến trúc nhà ở của các vùng miền, các dân tộc khá ấn tượng.
Từ ngôi nhà vườn Huế cây trái xum xuê, sang nhà Bình Định “thông minh” – mát
mùa hè, ấm mùa đông, đến ngôi nhà rông Tây Nguyên vươn cao vững chãi, hay nhà
người Mông thoang thoảng hương gỗ thông, đều do chính tay người bản địa và đồng
bào dân tộc thi công, chăm chút.
Một
thoáng Việt Nam còn là khu du lịch hấp dẫn, khi ở đây có đủ
bài bản của một địa chỉ có khả năng bắt khách tham quan phải đưa tay vào ví.
Những dịch vụ như khu vui chơi, nghỉ dưỡng sẽ đến, sau khi du khách bị hấp dẫn
bởi những món đồ thủ công mỹ nghệ được sản xuất ngay trước mắt mình, hoặc mùi
vị của những món đặc sản nhiều vùng miền xông thẳng vào khứu giác.
Nhiều
khách tham quan không cưỡng được sự hiếu kỳ trước những động tác gọn gàng, điêu
luyện của người thợ làm giấy dó, hay trố mắt ngạc nhiên khi lần đầu tiên trong
đời thấy những hạt đường thành hình từ lò nấu đường thủ công… Nếu cho phép
người xem trực tiếp tham gia, như thử vài đường thêu, nặn thử một lọ gốm, thì
hiệu quả càng cao.
Địa
chỉ: ấp Phú Bình, xã Củ Chi, huyện Củ Chi, TP Hồ Chí Minh
Điện
thoại: (84) (08) 22181465 * Fax: (84) (08) 37980141